Điểm kỹ thuật trọng yếu trong sản xuất rau vụ đông

- Nhà kính năng lượng mặt trời ở miền Bắc
(1) Chuẩn bị nhà kính
-
Gia cố nhà kính. Đầu mùa đông, tăng cường kiểm tra và bảo dưỡng khung, tường và lối ra vào. Với nhà cũ hoặc khả năng chịu gió/tuyết kém, cần gia cố sớm.
-
Thay màng phủ. Trước mùa đông, chọn ngày không gió để thay màng cũ. Với rau ăn quả, dùng màng nhựa đa năng bền, chống ngưng tụ, truyền sáng cao và giữ nhiệt tốt, dày ≥ 0,10 mm. Ở Đông Bắc rét đậm, dùng PVC hoặc PO cách nhiệt tốt; tại Hoàng‑Hoài‑Hải và vành đai Bột Hải, chọn PO hoặc EVA có hiệu quả chống mờ/đọng giọt kéo dài; ở Tây Bắc và Tây Tạng, cân nhắc màng chuyển đổi ánh sáng. Với luống hướng đông‑tây, dùng màng khuếch tán có độ mờ khoảng 40%.
-
Chuẩn bị lớp phủ giữ ấm. Thay kịp thời lớp phủ hỏng hoặc kém hiệu quả. Thông thường chiếu rơm 3,5–4,0 kg/m² và chăn ≥ 2 cm. Lớp phủ phải kín, đều, khô; nhiều lớp chồng mí không hở. Ở vĩ độ cao dùng chăn đôi để đảm bảo giữ nhiệt đủ cho sản xuất.
-
Bảo trì thiết bị. Định kỳ kiểm tra máy cuốn, thiết bị thông gió, điện, đèn bổ sung, sưởi khẩn cấp và các thiết bị điều khiển môi trường khác.
(2) Điều tiết môi trường
-
Nhiệt độ. Khi nhiệt độ ngoài trời ban đêm < 10°C, che chăn giữ nhiệt kịp thời để nhiệt độ trong nhà ≥ 15°C ban đêm. Từ 12 đến 2: ban ngày 26–32°C, đầu đêm 18–20°C, tối thiểu trước rạng sáng ≥ 8°C. Mùa đông thông gió đỉnh mái, treo màng đệm dưới cửa gió và tăng lưu lượng dần. Treo màng ở cửa và mái trước để giảm gió lạnh lùa. Khi mưa/tuyết, phủ nhựa lên chăn để giữ khô. Khi âm u kéo dài hay rét đậm, dùng nhiều lớp phủ và nếu cần sưởi tạm (đèn HPS, lò khí nóng, quạt sưởi, gạch sinh nhiệt).
-
Ánh sáng. Thường xuyên vệ sinh màng để giữ truyền sáng. Khi đảm bảo nhiệt, mở sớm/đậy muộn để kéo dài thời gian chiếu sáng. Ở vùng ít nắng, treo màng phản quang ở sườn sau với góc phù hợp để tăng sáng phía bắc. Khi âm u mưa tuyết kéo dài, ban ngày không mưa tuyết có thể cuộn lớp phủ trong thời gian ngắn để tăng quang hợp. Khi hửng nắng sau chuỗi ngày âm u, hạ lớp phủ tầm trưa để tránh héo do thoát hơi mạnh.
-
Độ ẩm. Kiểm soát ẩm để ngăn bệnh. Tưới buổi sáng nắng bằng tưới rãnh dưới màng phủ hoặc nhỏ giọt; có thể lót rãnh bằng rơm băm hút ẩm. Sau khi cuộn chăn, thông gió ngắn (≤ 20 phút) để khử ẩm. Tầm trưa, thông gió tùy tình trạng cây và nhiệt‑ẩm. Khi âm u/mưa/tuyết liên tục, thông gió 10–20 phút lúc ấm nhất trong ngày. Có thể dùng thiết bị hút ẩm nếu điều kiện cho phép.
(3) Kỹ thuật then chốt
-
Giảm trở ngại đất. Trước cấy, cày sâu 30–40 cm; kết hợp đóng kín/solarization để hoàn trả rơm rạ vụ trước tại chỗ, nâng độ phì. Với nhà bị bệnh đất nặng, khi solarization bổ sung canxi xyanamit (40–60 kg/mẫu) hoặc dazomet (20–30 kg/mẫu) cùng rơm lúa/bắp (600–1000 kg/mẫu) để hạ nguồn bệnh. Trước cấy sau solarization, bón phân vi sinh để nhanh phục hồi hệ vi sinh vật đất lành mạnh.
-
Kích rễ, làm cây con khỏe. Trước cấy, bón phân hữu cơ hoai mục chất lượng cao, phân trùn quế, phân axit humic. Với rau ăn quả, trước khi phủ nilon sau cấy, xới nông‑trung bình 1–2 lần để kích rễ ăn sâu. Mùa đông rễ sinh trưởng chậm, dùng phân humic/alginate để tăng hoạt tính rễ. Cây yếu có thể phun phân bón lá chứa đường và axit amin. Trước rét đậm, phun điều hòa sinh trưởng (như brassinolide) để tăng chống rét.
-
Giữ hoa/đậu quả. Trong điều kiện lạnh và thiếu sáng mùa đông, kịp thời điều chỉnh tán bằng bấm ngọn, tỉa chồi bên nhằm hạn chế sinh trưởng dinh dưỡng quá mức,
Published at: Nov 22, 2024 · Modified at: Oct 3, 2025